Y Học - Sức Khỏe

Các thông tin mới nhất về y học sức khỏe như y học sức khỏe ăn uống, điều trị, thực phẩm, dinh dưỡng.

Công Nghệ Mới

Những công nghệ mới nhất trong ngành khoa học như công nghệ máy tính, các nhiên liệu mới phục vụ cho đời sống.

Bí Ẩn Thế Giới

Khoa học bí ẩn cùng các hiện tượng bí ẩn khoa học được khám phá, được giải mã.

Môi Trường

Môi trường luôn là một trong những chủ đề được quan tâm nhất ngày nay.

Gia Đình và Cuộc Sống

Cập nhật thông tin liên tục về các vấn đề thời sự, sinh hoạt, gia đình, xã hội.

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2019

Các công nghệ mới sẽ làm tổn thương trí nhớ của con người?

Lớp học trò của thế hệ mươi năm trước thường sở hữu thói quen tính nhẩm các phép tính căn bản, không chỉ lúc làm cho bài tập trong lớp, mà còn áp dụng cả vào toàn cầu đời thường như trong các khi sắm bán.

một phần là do thời đấy chưa sở hữu máy tính cầm tay như hiện nay, nhưng phần lớn là thời xưa học trò đều được tập cho bí quyết tính nhẩm. Học trò thời nay, mỗi lần khiến cho toán là rút sản phẩm ra “bấm bấm”, thậm chí những cô bán rau quanh đó chợ cũng tính tiền bằng máy tính.

Chính do đó mà giới khoa học đã đặt vấn đề liệu kỹ thuật mới sở hữu tác động làm cho tổn thương trí nhớ của chúng ta?

Tạp chí Sciences et Avenir nổi danh của Pháp đã đang chạy cuộc phỏng vấn với bác sĩ Thần kinh Tâm lý Francis Eustache, giám đốc đơn vị nghiên cứu của Inserm tại Đại học Caen Normandy và chủ tịch Hội đồng khoa học của tạp chí Observatoire, nhằm tìm hiểu ngầm vấn đề.

“Bộ nhớ trong” của chúng ta sẽ bị suy yếu chính vì những “bộ nhớ ngoài” như thế này.
“Bộ nhớ trong” của chúng ta sẽ bị suy yếu chính vì những “bộ nhớ ngoài” như thế này.

thời gian này, chuyện “quên” đã trở nên chuyện thường tình. Quên cửa hàng, quên số Mobile của ai ấy... Chỉ là chuyện thường tình. Nhưng gặp người quen, nhớ mặt mà quên tên hoặc nhớ tên mà quên mặt mới là “nguy hiểm”.

Chữ “memory”, tức ký ức, lấy từ tiếng Latin “memoria” nghĩa là “khả năng ghi nhớ”, đã được tạp chí Sciences et Avenir dí dỏm ví von là thời điểm này đã “tuột khỏi tay chúng ta” mà nguyên do là việc sử dụng đa số vĩnh viễn những công nghệ mới, và nhất là từ khi Internet phát triển ra.

BS. Francis Eustache cho biết, một nghiên cứu của TS. Betsy Sparrow, giáo sư Tâm lý học tại Đại học Columbia (Mỹ) đã cho thấy vô cùng rõ rằng khi đặt câu chất vấn khá cạnh tranh cho sinh viên, chẳng hạn như "Sông Hoàng Hà ở đâu?", thì điều trước tiên mà những em nghĩ đến là search câu trả lời trên Internet hơn là tìm trong trí nhớ của chính mình.

Internet Như vậy đã vươn lên là 1 dạng đòi hỏi của “bộ nhớ ngoài”, tức là nơi mà thông tin được lưu trữ bên xung quanh chúng ta. Và chính là một sự thay đổi to đối với chức năng nhận thức và đối mang não của chúng ta.

Sức mạnh của kỹ thuật giúp lưu thông kiến ​​thức và tiếp tế cho chúng ta không ít thông tin ngay tắp lự. Nhưng, giống như bất kỳ sự tăng trưởng kỹ thuật nào, cũng đều ra đời trái của nó như đặt ra vấn đề một biện pháp chung chung hơn, được quan tâm triết học, về mối địa chỉ giữa ký ức bên trong và ký ức bên không tính.

bộ nhớ lưu trữ trong mang tính năng tổng hợp các gì đã biết (bộ nhớ ngữ nghĩa), các gì đã nhớ (bộ nhớ nhiều lựa chọn tập), các gì đã làm cho chủ (bộ nhớ về phương pháp), đó đó là bộ nhớ của chúng ta.

Nhưng bộ lưu trữ trong lại luôn được kết nối mang bộ nhớ lưu trữ bên kế bên (là nơi ta biết chắc hẳn tậu thấy thông tin) như nơi các người khác, trong thư viện, trên báo chí, tại trường đại học và hiện nay là Internet.

Lại thêm 1 vấn đề nữa là “bộ nhớ bên ngoài” mang nguồn thông tin siêu phong phú và dễ truy cập trong khi bộ não của chúng ta thì lại hạn chế. Do đó, tại sao nên ghi nhớ thông tin cho não lúc chúng ta biết rằng nó đã được lưu giữ đâu ấy trên mạng?

Cũng có thắc mắc rằng đúng là chúng ta mang quá ít nỗ lực để ghi nhớ (bao gồm cả số điện thoại), nhưng liệu điều này có nghiêm trọng hay không?

Sẽ chẳng phải là nghiêm trọng nếu chúng ta với 1 danh bạ tin cậy, nhưng vấn đề là giả dụ bộ nhớ trong suy yếu thì những kiến thức về trái đất cũng sẽ suy yếu trong lúc nó giúp cho chúng ta suy nghĩ và quyết định đa phần điều.

Quá đa dạng lời mời chào (thông báo, tin nhắn, email, tin tức...) cũng ko với lợi, sẽ làm cho chúng ta buộc phải ứng phó không nhấn mạnh vào được vấn đề chính yếu và não cũng ko được nghỉ ngơi. Như vậy, mối quan hệ bộ lưu trữ trong/bộ nhớ bên cạnh phải phải được cân bằng.

Về việc tiêu dùng GPS, theo một nghiên cứu hình ảnh não, được biết rằng những tài xế taxi ở London, những người buộc phải biết hoàn toàn những con đường trong thành phố, đều mang vùng hippocampus (cấu trúc trong não liên quan tới ghi nhớ và định hướng trong ko gian) lớn lên hơn người bình thường. Nhưng giả dụ vùng này ít được dùng thì rồi sẽ bị suy yếu đi.

BS. Francis Eustache kết luận, giả dụ nói rằng bộ lưu trữ của chúng ta đang bị đe dọa bởi những khoa học mới thì đây đúng là những gì phần lớn chúng ta nghĩ, tuy vẫn còn phải đến các kết quả nghiên cứu khoa học để chứng minh.

Điều duy nhất chúng ta có thể nhắc hôm nay là để lớn lên thấp các chức năng nhận thức của người trẻ, việc dùng các kỹ thuật mới bắt buộc cực kỳ giảm thiểu. Và quan trọng là nên biết cách điều tiết thời gian ngắt connect để bảo toàn cho bộ lưu trữ.

Khoa học biến động cơ phản lực lai tên lửa đẩy thành hiện thực

công nghệ ngăn động cơ phản lực tan chảy ở vận tốc cực kỳ thanh được thử thành công, giúp giảm giờ bay từ London tới New York xuống một tiếng.

Bước tiếp theo là thử nghiệm khoa học ở tốc độ Mach 5,5 giống như 6.800km/h, chắc hẳn rút ngắn thời gian bay giữa London và New York xuống chưa đầy 1 tiếng. Công nghệ này sẽ công tác động cơ phản lực lai tên lửa đẩy Synergetic Air Breathing Rocket Engine (Sabre), lắp trên các vật dụng bay to để chở khách vòng quanh trái đất trong vài giờ và chở hàng hóa lên quỹ đạo.Nhóm nghiên cứu đến từ siêu thị Reaction Engines của Anh cung cấp thành công bộ làm cho lạnh sơ bộ ở tốc độ mô phỏng Mach 3,3 tương đương 4.075km/h, giúp lắp đặt động cơ vô cùng thanh cỡ to lớn trên vật dụng bay phản lực chở khách trở nên khả thi hơn. Bộ làm lạnh sơ bộ cho phép đồ vật bay đi lại ở tốc độ cao mà ko tiếp xúc có ko khí nóng khiến động cơ tan chảy. Sản phẩm đã được thí nghiệm ở vận tốc mô phỏng to gấp hơn hai lần tốc độ âm thanh.

Công nghệ làm lạnh sơ bộ có tiềm năng ứng dụng trên máy bay vũ trụ tái sử dụng.
khoa học làm cho lạnh sơ bộ sở hữu tiềm năng ứng dụng trên sản phẩm bay vũ trụ tái sử dụng. (Ảnh: Reaction).

Reaction xây dựng cơ sở thí nghiệm TF2 tại Cảng Hàng ko Vũ trụ Colorado, Mỹ, và dùng động cơ tuabin phản lực General Electric J79 để mô phỏng điều kiện đồ vật bay sẽ trải qua ở tốc độ cực kỳ thanh. Nhà hàng kỳ vọng Chắn chắn ra đời một phương tiện tái dùng hợp lại thành một tính tiết kiệm nhiên liệu của động cơ phản lực mang sức mạnh và vận tốc của tên lửa.

công ty Reaction mang trụ sở ở Oxfordshire cho rằng loại thiết bị bay Chắn chắn vượt qua quãng đường London và New York trong chưa đầy 1 giờ khi di chuyển ở vận tốc tối đa. Doanh nghiệp cũng muốn đưa hành khách cũng như hàng hóa lên vũ trụ và trở về toàn cầu. Phát ngôn viên của Reaction giao lưu dù yêu cầu nhiều thập kỷ để hoàn thiện trước lúc đang chạy trên đồ vật bay phản lực chở khách, khoa học giao hoán nhiệt mới mang nhiều kiểu ứng dụng tiềm năng từ hàng không vũ trụ đến những môn thể thao tốc độ, giai đoạn xử lý công nghiệp và trong ngành dầu khí.

kỹ thuật khiến cho lạnh sơ bộ được mẫu thiết kế để hạ tốt nhiệt độ ko khí qua động cơ từ hơn một.000 độ C xuống nhiệt độ phòng trong 0,05 giây. Để đang chạy điều này, nhóm nghiên cứu phát triển 1 vật dụng đổi chác nhiệt nhằm kiểm soát luồng khí nhiệt độ cực cao. Công nghệ sẽ khiến lạnh không khí trong ống nạp của động cơ tuabin phản lực tốc độ cao trên trang bị bay rất thanh.

Từ lúc cất cánh đến khi đạt tốc độ Mach 5,5, động cơ Sabre sẽ nạp oxy trong ko khí vào buồng đốt tên lửa. Tại đây, động cơ sẽ khai hỏa cộng với hydro lỏng có sẵn. Sau khoản thời gian lên tới độ cao khổng lồ, nó sẽ đốt cháy oxy lỏng và hydro lỏng từ bình cất nhiên liệu. Sabre thực hiện điều này bằng bí quyết khiến nguội luồng khí trong chưa đầy 0,05 giây. Ở độ cao và vận tốc nhỏ, Sabre hoạt động giống như động cơ phản lực, đốt cháy nhiên liệu trong luồng khí lấy từ khí quyển. Ở độ cao và tốc độ to lớn, Sabre sẽ chuyển hẳn sang chế độ tên lửa, hợp lại thành một nhiên liệu sở hữu oxy bên trong.

Con đường mới của robot phân tử

Robot phân tử là 1 khái niệm mới sở hữu việc xuất hiện từng con robot nhỏ, riêng rẽ nhưng y hệt nhau, độc lập với các thành phần cơ cấu và độc lập cả có trung tâm điều khiển.

Khái niệm mới này được lấy ý tưởng từ “Grey Goo”, 1 robot phá hoại trong phim kỹ thuật giả tưởng, với kết cấu lạ lùng có hàng tỷ cỗ máy nano và với sức tàn phá khủng khiếp.

dòng hình robot này là cảm hứng của nhà kỹ thuật Mỹ Kim Eric Drexler (1955), tiến sĩ tại viện kỹ thuật MIT lừng danh. Chính ông là người đã đề xuất chữ Nanotechnology (Công nghệ Nano) và được cộng đồng khoa học phê chuẩn.

TS. Kim Eric Drexler, người đã đề xuất cho Công nghệ Nano.
TS. Kim Eric Drexler, người đã đề xuất cho kỹ thuật Nano.

Trong cuốn Engines of creation viết năm 1986, ông đã đề xuất sáng tạo về việc phân phối những bộ máy phân tử mang khả năng sử dụng để cung cấp các thiết bị khác, mở ra kỷ nguyên sản xuất các đồ vật chính xác đến mức độ phân tử mà ông cho rằng sẽ xây dựng thương hiệu 1 cuộc bí quyết mạng khoa học rất cần thiết.

Quyển sách đã thu hút sự quan tâm rộng rãi đối có lĩnh vực mới này và những nhà sản xuất phim ảnh đã dùng khiến sáng tạo để cung ứng bộ phim về Grey Goo.

cần nói rằng, thực sự là các con robot siêu mỏng manh. Chúng chỉ là những cái hộp chứa chứa phổ thông linh kiện mà giả dụ chỉ 1 linh kiện bị hỏng thì phần lớn sẽ không còn hoạt động được nữa.

nguyên do đơn thuần vì bề ngoài của chúng thuộc về vào nơi tập trung điều khiển tức máy tính xách tay, những thành phần thì lệ thuộc lẫn nhau và hoạt động thì lệ thuộc vào những thành phần khác.

Ví dụ trên 1 robot hình người, trường hợp động cơ được dùng cho robot bước đi mà hỏng thì robot này sẽ không đi được nữa hoặc ngã.

Trở lại với robot phân tử, các nhà nghiên cứu tại các trường đại học Columbia ở New York, Harvard ở Cambridge và Cornell ở Ithaca, đã chọn khám phá 1 con đường mới tạm gọi là robot phân tử (Particle Robotics) lấy ý tưởng từ các tế bào sinh học.

Cận cảnh “chân dung” các robot phân tử.
Cận cảnh “chân dung” các robot phân tử.

Đây là các robot mini rất đơn thuần và y hệt nhau, sở hữu dạng những đĩa hình tròn mang đường kính khi thu nhỏ là 6 inc (khoảng 15 cm) và 9 inch lúc mở lớn chu vi (khoảng sắp 23 cm).

Chúng chỉ có hai nhiệm vụ là khép và bung mở vòng chu vi để tạo thành các hoạt động hiệu quả. Lúc vòng chu vi bung mở ra, những thanh từ tính trên vòng này sẽ sẽ hấp dẫn với những thanh từ tính trên vòng chu vi của robot khác và cứ thế gắn kết dần thành số lượng ngày càng to.

Mặc dù chúng chỉ được lắp thêm hai chức năng đóng-mở vòng chu vi, nhưng một lúc đã gắn kết nhau chúng sở hữu khả năng phản ứng sở hữu ánh sáng bằng giải pháp dao động, tiến về phía nguồn sáng và hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Các robot phân tử đang tự kết nối với nhau thành một tập hợp để tiến về nơi có ánh sáng.
các robot phân tử đang tự kết nối với nhau thành một tập hợp để tiến về nơi sở hữu ánh sáng.

Sau đó, những nhà nghiên cứu đã chuyển sang mô hình công nghệ số bằng bí quyết thử nghiệm “dán” hàng trăm và hàng ngàn robot vào với nhau. Kết quả, đám robot này có thể giảm thiểu được các chướng ngại vật và chuyển động qua các khe hẹp.

Qua theo dõi, khi di chuyển qua những khe hẹp, phương bí quyết của chúng là giảm bớt số lượng và khi chui qua xong thì chúng lại gắn kết với nhau thành đám to lớn như cũ.

Thêm nữa, chúng lại còn sở hữu khả năng chuyển động 1 vật thể to lớn hơn mình bằng bí quyết “xúm lại”“hò nhau” đẩy đi, hay nhắc bí quyết khác là lùa vật thể đi theo đàn của mình, chẳng khác gì cảnh 1 đàn kiến đang tha mồi.

một kết quả khác đầy phấn khởi hơn nữa là lúc thử phá vỡ 20% của tổng thể, cả đám robot vẫn di chuyển được với 50% tốc độ. Như vậy, tuy mô hình này vẫn còn đơn giản nhưng phân biệt là đã mở ra một con đường mới cho thấy cứng cáp dáng vẻ các robot mang hoạt động độc lập ko cần tới trung ương điều khiển.

Con đường mới của robot phân tử

Robot phân tử là 1 khái niệm mới với việc xây dựng thương hiệu từng con robot nhỏ, riêng rẽ nhưng y hệt nhau, độc lập có các thành phần cấu tạo và độc lập cả với trung ương điều khiển.

Khái niệm mới này được lấy ý tưởng từ “Grey Goo”, một robot phá hoại trong phim khoa học nhái tưởng, với kết cấu vượt trội sở hữu hàng tỷ cỗ máy nano và có sức tàn phá khủng khiếp.

dòng hình robot này là sáng kiến mới của nhà kỹ thuật Mỹ Kim Eric Drexler (1955), tiến sĩ tại viện khoa học MIT lừng danh. Chính ông là người đã đề xuất chữ Nanotechnology (Công nghệ Nano) và được cùng đồng khoa học bằng lòng.

TS. Kim Eric Drexler, người đã đề xuất cho Công nghệ Nano.
TS. Kim Eric Drexler, người đã đề xuất cho khoa học Nano.

Trong cuốn Engines of creation viết năm 1986, ông đã đề xuất cảm hứng về việc chế tạo các bộ máy phân tử sở hữu khả năng sử dụng để cấp dưỡng các sản phẩm khác, mở ra kỷ nguyên sản xuất các sản phẩm chính xác đến mức độ phân tử mà ông cho rằng sẽ xây dựng thương hiệu một cuộc biện pháp mạng kỹ thuật rất cần thiết.

Quyển sách đã cuốn hút sự sử dụng rộng rãi đa dạng đối sở hữu lĩnh vực mới này và những nhà cấp dưỡng phim ảnh đã sử dụng làm cảm hứng để cung ứng bộ phim về Grey Goo.

đề nghị bảo rằng, thực sự là các con robot rất mỏng manh. Chúng chỉ là các chiếc hộp chứa đựng nhiều lựa chọn linh kiện mà nếu chỉ một linh kiện bị hỏng thì đông đảo sẽ ko còn hoạt động được nữa.

lý do đơn giản vì dáng vẻ của chúng lệ thuộc vào trung ương điều khiển tức máy tính xách tay, những thành phần thì phụ thuộc lẫn nhau và hoạt động thì thuộc về vào những thành phần khác.

Ví dụ trên 1 robot hình người, trường hợp động cơ được dùng cho robot bước đi mà hỏng thì robot này sẽ ko đi được nữa hoặc ngã.

Trở lại mang robot phân tử, các nhà nghiên cứu tại các trường đại học Columbia ở New York, Harvard ở Cambridge và Cornell ở Ithaca, đã mua khám phá 1 con đường mới tạm gọi là robot phân tử (Particle Robotics) lấy sáng tạo từ những tế bào sinh học.

Cận cảnh “chân dung” các robot phân tử.
Cận cảnh “chân dung” những robot phân tử.

Đây là những robot mini siêu đơn giản và y hệt nhau, mang dạng những đĩa hình tròn mang đường kính lúc thu nhỏ là 6 inh (khoảng 15 cm) và 9 inc lúc mở khổng lồ chu vi (khoảng sắp 23 cm).

Chúng chỉ mang hai nhiệm vụ là khép và bung mở vòng chu vi để tạo thành những hoạt động hiệu quả. Lúc vòng chu vi bung mở ra, những thanh từ tính trên vòng này sẽ sẽ thu hút với các thanh từ tính trên vòng chu vi của robot khác và cứ thế gắn kết dần thành số lượng ngày càng to lớn.

Mặc dù chúng chỉ được đồ vật hai chức năng đóng-mở vòng chu vi, nhưng một lúc đã gắn kết nhau chúng sở hữu khả năng phản ứng với ánh sáng bằng phương pháp dao động, tiến về phía nguồn sáng và hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Các robot phân tử đang tự kết nối với nhau thành một tập hợp để tiến về nơi có ánh sáng.
những robot phân tử đang tự connect có nhau thành một tập hợp để tiến về nơi sở hữu ánh sáng.

Sau đấy, các nhà nghiên cứu đã chuyển sang mô hình công nghệ số bằng giải pháp thử nghiệm “dán” hàng trăm và hàng ngàn robot vào mang nhau. Kết quả, đám robot này vững chắc giảm thiểu được những chướng ngại vật và đi lại qua các khe hẹp.

Qua theo dấu, lúc di chuyển qua những khe hẹp, phương bí quyết của chúng là giảm bớt số lượng và khi chui qua xong thì chúng lại gắn kết mang nhau thành đám khổng lồ như cũ.

Thêm nữa, chúng lại còn với khả năng vận động một vật thể to hơn mình bằng phương pháp “xúm lại”“hò nhau” đẩy đi, hay nhắc biện pháp khác là lùa vật thể đi theo đàn của mình, chẳng khác gì cảnh 1 đàn kiến đang tha mồi.

một kết quả khác đầy phấn khởi hơn nữa là khi thử phá vỡ 20% của tổng thể, cả đám robot vẫn chuyển động được mang 50% vận tốc. Như vậy, tuy mô hình này vẫn còn đơn thuần nhưng phân biệt là đã mở ra một con đường mới cho thấy chắc hẳn ngoại hình những robot sở hữu hoạt động độc lập không phải tới trung tâm điều khiển.

Con đường mới của robot phân tử

Robot phân tử là 1 khái niệm mới với việc ra mắt từng con robot nhỏ, riêng rẽ nhưng y hệt nhau, độc lập mang những thành phần cơ cấu và độc lập cả sở hữu trung ương điều khiển.

Khái niệm mới này được lấy sáng tạo từ “Grey Goo”, 1 robot phá hoại trong phim kỹ thuật fake tưởng, mang kết cấu lạ lùng có hàng tỷ máy bộ nano và với sức tàn phá khủng khiếp.

cái hình robot này là cảm hứng của nhà khoa học Mỹ Kim Eric Drexler (1955), tiến sĩ tại viện kỹ thuật MIT lừng danh. Chính ông là người đã đề xuất chữ Nanotechnology (Công nghệ Nano) và được cùng đồng khoa học chấp nhận.

TS. Kim Eric Drexler, người đã đề xuất cho Công nghệ Nano.
TS. Kim Eric Drexler, người đã đề xuất cho khoa học Nano.

Trong cuốn Engines of creation viết năm 1986, ông đã đề xuất sáng kiến mới về việc cung cấp các bộ máy phân tử với khả năng dùng để cung ứng những trang bị khác, mở ra kỷ nguyên phân phối các trang bị chính xác đến mức độ phân tử mà ông cho rằng sẽ xây dựng thương hiệu 1 cuộc cách mạng khoa học rất cần thiết.

Quyển sách đã hấp dẫn sự để ý nhiều đối sở hữu lĩnh vực mới này và những nhà thêm vào phim ảnh đã tiêu dùng làm sáng kiến mới để cấp dưỡng bộ phim về Grey Goo.

yêu cầu nói rằng, thực sự là những con robot cực kỳ mỏng manh. Chúng chỉ là những cái hộp đựng đựng nhiều linh kiện mà nếu chỉ 1 linh kiện bị hỏng thì toàn thể sẽ không còn hoạt động được nữa.

nguyên nhân đơn giản vì bề ngoài của chúng thuộc về vào trung ương điều khiển tức máy tính, những thành phần thì thuộc về lẫn nhau và hoạt động thì lệ thuộc vào những thành phần khác.

Ví dụ trên một robot hình người, giả dụ động cơ được tiêu dùng cho robot bước đi mà hỏng thì robot này sẽ ko đi được nữa hoặc ngã.

Trở lại có robot phân tử, các nhà nghiên cứu tại những trường đại học Columbia ở New York, Harvard ở Cambridge và Cornell ở Ithaca, đã tậu khám phá một con đường mới tạm gọi là robot phân tử (Particle Robotics) lấy ý tưởng từ những tế bào sinh học.

Cận cảnh “chân dung” các robot phân tử.
Cận cảnh “chân dung” những robot phân tử.

Đây là các robot mini rất đơn giản và y hệt nhau, mang dạng những đĩa hình tròn với đường kính khi thu nhỏ là 6 inch (khoảng 15 cm) và 9 inh khi mở to lớn chu vi (khoảng gần 23 cm).

Chúng chỉ mang hai nhiệm vụ là khép và bung mở vòng chu vi để tạo thành những hoạt động hiệu quả. Khi vòng chu vi bung mở ra, các thanh từ tính trên vòng này sẽ sẽ thu hút có các thanh từ tính trên vòng chu vi của robot khác và cứ thế gắn kết dần thành số lượng ngày càng to.

Mặc dù chúng chỉ được trang bị hai chức năng đóng-mở vòng chu vi, nhưng 1 lúc đã gắn kết nhau chúng mang khả năng phản ứng với ánh sáng bằng biện pháp dao động, tiến về phía nguồn sáng và hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Các robot phân tử đang tự kết nối với nhau thành một tập hợp để tiến về nơi có ánh sáng.
những robot phân tử đang tự connect có nhau thành 1 tập hợp để tiến về nơi mang ánh sáng.

Sau đấy, các nhà nghiên cứu đã chuyển sang mô hình công nghệ số bằng phương pháp thí nghiệm “dán” hàng trăm và hàng ngàn robot vào có nhau. Kết quả, đám robot này vững chắc giảm thiểu được các chướng ngại vật và vận động qua những khe hẹp.

Qua theo dấu, khi đi lại qua các khe hẹp, phương bí quyết của chúng là giảm bớt số lượng và lúc chui qua xong thì chúng lại gắn kết mang nhau thành đám khổng lồ như cũ.

Thêm nữa, chúng lại còn mang khả năng đi lại một vật thể khổng lồ hơn mình bằng cách “xúm lại”“hò nhau” đẩy đi, hay đề cập biện pháp khác là lùa vật thể đi theo đàn của mình, chẳng khác gì cảnh 1 đàn kiến đang tha mồi.

1 kết quả khác đầy phấn khởi hơn nữa là khi thử phá vỡ 20% của tổng thể, cả đám robot vẫn đi lại được có 50% vận tốc. Vì vậy, tuy mô hình này vẫn còn đơn thuần nhưng minh bạch là đã mở ra 1 con đường mới cho thấy chắc chắn thiết kế các robot với hoạt động độc lập ko bắt buộc tới trung tâm điều khiển.